• :
  • :
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Đàm phán thuế đối ứng Việt Nam – Hoa Kỳ: Cửa sổ cơ hội mới, phép thử năng lực thích ứng

Hàng loạt thương vụ tỉ USD được ký kết, cùng việc Hoa Kỳ hạ thuế đối ứng cho Việt Nam từ 46% xuống 20% đã mở ra chương mới cho thương mại hai nước.

Đàm phán thuế đối ứng Việt Nam – Hoa Kỳ: Cửa sổ cơ hội mới, phép thử năng lực thích ứng

Việt Nam và Hoa Kỳ đã đồng ý công bố Tuyên bố chung Việt Nam và Hoa Kỳ về Khuôn khổ Hiệp định thương mại đối ứng, công bằng và cân bằng. Ảnh: Hải Nguyễn

Ngày 26.10.2025, Việt Nam và Hoa Kỳ công bố Tuyên bố chung về Khuôn khổ Hiệp định thương mại đối ứng, công bằng và cân bằng bên lề Hội nghị Cấp cao ASEAN tại Kuala Lumpur.

Đi kèm là những con số “tỉ USD” hé lộ động lực mới như 50 tàu bay Boeing trị giá trên 8 tỉ USD, 20 biên bản ghi nhớ nông sản hơn 2,9 tỉ USD, và đặc biệt là tín hiệu Hoa Kỳ điều chỉnh “thuế đối ứng” áp cho Việt Nam từ 46% xuống 20% kể từ 1.8.2025 theo sắc lệnh của Tổng thống.

PGS.TS Ngô Trí Long - chuyên gia kinh tế, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu giá (Bộ Tài chính). Ảnh: Nhân vật cung cấp

PGS.TS Ngô Trí Long - chuyên gia kinh tế, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu giá (Bộ Tài chính). Ảnh: Nhân vật cung cấp

Đọc đúng “tín hiệu” từ thị trường

Trong 9 tháng 2025, Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch 112,8 tỉ USD đã khẳng định độ mở và tầm quan trọng sống còn của thị trường này. Khuôn khổ đối ứng không chỉ là câu chuyện thuế quan; đó là gói điều chỉnh đồng bộ liên quan rào cản phi thuế, thương mại số, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, chuỗi cung ứng bền vững.

Thành – bại lúc này phụ thuộc vào tốc độ chúng ta nâng chuẩn thể chế và nâng cấp năng lực doanh nghiệp để chuyển “ưu đãi một lần” thành “lợi thế bền lâu”.

Thứ nhất, cần ưu tiên ổn định chuỗi cung ứng. Thông điệp “resilient supply chains” trong Tuyên bố chung cho thấy doanh nghiệp Hoa Kỳ muốn đa dạng hóa rủi ro, kéo thêm mắt xích ở Đông Nam Á. Việt Nam có vị trí thuận lợi, nền công nghiệp hỗ trợ tiến bộ nhanh, lực lượng lao động lành nghề và độ mở thương mại cao. Đây là điểm cộng cạnh tranh nếu ta sớm khép khoảng cách về hạ tầng logistics, tiêu chuẩn môi trường, lao động, truy xuất nguồn gốc.

Thứ hai, “thuế đối ứng” đã hạ nhưng không đồng nghĩa “mặc định hưởng lợi”. Thuế giảm từ 46% xuống 20% là bước nới đáng kể, song các điều kiện đi kèm (quy tắc xuất xứ, an toàn sản phẩm, tiêu chuẩn môi trường và lao động, tiêu chí an ninh kinh tế) sẽ quyết định lợi thế thực tế.

Thứ ba, mảng thương mại số và sở hữu trí tuệ sẽ là thước đo “đối ứng công bằng”. Việc thống nhất các cam kết thương mại số, dịch vụ và đầu tư, sở hữu trí tuệ là tín hiệu tích cực cho các ngành bán lẻ số, dịch vụ số xuyên biên giới, R&D. Song đây cũng là “đường băng” đòi hỏi Việt Nam điều chỉnh luật chơi nội địa (quản trị dữ liệu, bảo hộ sở hữu trí tuệ, trung tâm dữ liệu, an toàn thông tin) để tương thích với chuẩn cao.

Tác động dự kiến theo ngành: Ai được, ai “phải tăng tốc”?

Hợp đồng 50 tàu bay Boeing (>8 tỉ USD) không chỉ gia tăng năng lực đội bay mà còn kéo theo cụm dịch vụ kỹ thuật, bảo dưỡng, đào tạo phi công, tài chính hàng không. Cơ hội là hậu cần kỹ thuật (MRO) và đào tạo nhân lực chất lượng cao; thách thức là chuẩn an toàn, vốn hóa và quản trị rủi ro tỉ giá, lãi suất khi vay thuê mua máy bay.

Đối với nông nghiệp, thực phẩm, các MoU nông sản 2,9 tỉ USD mở cửa cho hoa quả, thủy sản, gỗ, gia vị nếu đáp ứng truy xuất nguồn gốc, dư lượng – kiểm dịch. Cần ưu tiên mã số vùng trồng, hệ thống quản trị chất lượng số hóa, logistics lạnh để chuyển từ “bán thô” sang “bán chuẩn – bán sâu”.

Đối với ngành dệt may, da giày, điện tử, mức thuế đối ứng giảm giúp cải thiện biên lợi nhuận ở những phân khúc chịu cạnh tranh sát sườn. Tuy nhiên, sức ép quy tắc xuất xứ (yarn-forward, linh kiện chủ lực nội địa hóa) và tiêu chuẩn bền vững gia tăng. Doanh nghiệp cần chương trình “đảo ngược cấu trúc chi phí” (tiết kiệm năng lượng, tối ưu cung ứng, tự động hóa) và đầu tư ESG để không bị loại khỏi chuỗi.

Đối với ngành dịch vụ số – thương mại điện tử, khi hai bên thảo luận sâu về thương mại số, thị trường mở ra cho dịch vụ xuyên biên giới, trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây, nội dung số. Lợi thế sẽ thuộc về doanh nghiệp sớm chuẩn hóa bảo vệ dữ liệu, bảo mật, chống gian lận, quản trị nội dung theo chuẩn cao.

6 mũi giải pháp để biến ưu đãi thành lợi thế dài hạn

Rủi ro chính sách “đối ứng” đồng nghĩa hai chiều. Nếu Việt Nam không cải thiện rào cản phi thuế (thủ tục, kiểm định, quản lý chuyên ngành), phía đối tác có thể tái siết hoặc điều chỉnh biện pháp – nhất là khi xuất hiện tranh chấp thương mại.

Để biến ưu đãi thành lợi thế dài hạn cần có những giải pháp cụ thể. Đầu tiên là đòn bẩy thể chế đồng bộ. Cần rà soát, đơn giản hóa rào cản phi thuế quan (kiểm tra chuyên ngành, chuẩn kỹ thuật) theo hướng “đa thừa nhận kết quả đánh giá sự phù hợp” với đối tác. Hoàn thiện khung thương mại số dữ liệu (luồng dữ liệu xuyên biên giới có kiểm soát, tiêu chuẩn bảo mật, lưu trữ) để tương thích cam kết cao. Nâng cấp khung sở hữu trí tuệ thực thi, xử lý hàng giả, vi phạm bản quyền...

Lập hành lang tuân thủ cho doanh nghiệp xuất khẩu chủ lực. Xây cổng dữ liệu tuân thủ mẫu hồ sơ tiêu chuẩn (ESG, lao động, môi trường, an ninh mạng), thư viện quy tắc xuất xứ; tích hợp truy xuất QR từ vùng nguyên liệu đến khâu logistics. Phát hành bộ chỉ số rủi ro thị trường Mỹ theo ngành, cập nhật hàng quý.

Thiết kế gói tín dụng ưu đãi đổi mới công nghệ – tự động hóa – ESG, gắn điều kiện chứng minh đơn hàng và kế hoạch tuân thủ chuẩn Hoa Kỳ. Mở rộng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu và phái sinh phòng ngừa tỉ giá, lãi suất cho doanh nghiệp mua/thuê tàu bay và nhập linh kiện.

Đặc biệt Việt Nam cần ngoại giao kinh tế chủ động, đối thoại định kỳ. Duy trì cơ chế đối thoại doanh nghiệp, cơ quan chức năng hai nước cấp quý để cập nhật quy định, cảnh báo sớm biện pháp phòng vệ, chia sẻ thực tiễn tuân thủ.


Lượt xem: 7
Nguồn:https://laodong.vn/kinh-doanh/dam-phan-thue-doi-ung-viet-nam--hoa-ky-cua-so-co-hoi-moi-phep-thu-nang-luc-thich-ung-1598910.ldo Copy link
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết