• :
  • :
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Công bằng tiếp cận giáo dục giữa lòng đô thị

Bình đẳng cơ hội giáo dục không chỉ là câu chuyện của trẻ em miền núi, biên giới, hải đảo, mà cần được bảo đảm ngay giữa lòng đô thị, khu công nghiệp, chế xuất.

Một hoạt động giáo dục của cô và trò Trường Mầm non Thuận Giao tại KCN phường Thuận Giao (TPHCM). Ảnh: ITN

Một hoạt động giáo dục của cô và trò Trường Mầm non Thuận Giao tại KCN phường Thuận Giao (TPHCM). Ảnh: ITN

Thiếu cơ sở giáo dục công lập

Cả nước có khoảng 260 khu công nghiệp, chế xuất đang hoạt động với 2,8 triệu lao động. Tuy nhiên, tại các khu này chỉ có 112 trường mầm non, đáp ứng được 45% nhu cầu gửi trẻ của công nhân.

TS Nguyễn Hải Hữu - Hiệp hội Giáo dục nghề nghiệp và Nghề công tác xã hội Việt Nam - cho rằng, tình trạng thiếu cơ sở mầm non công lập cho con em công nhân diễn ra phổ biến ở hầu hết địa phương có khu công nghiệp. Dù Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách phát triển trường mầm non tại khu vực đông lao động, song quỹ đất dành cho giáo dục lại thiếu, dẫn đến việc đầu tư xây dựng không đáp ứng nhu cầu thực tế.

Từ kết quả khảo sát, TS Nguyễn Hải Hữu nhận thấy, trong tổng số 840 trẻ em độ tuổi 0 - 18 thuộc 500 hộ gia đình ở 5 khu công nghiệp, có 628 trẻ (74,8%) đang theo học từ mầm non đến THPT. Trong số này, trẻ học mầm non - mẫu giáo chiếm 52,7%; tiểu học chiếm 36,1%; THCS chiếm 9,4%; và chỉ dưới 2% học THPT. Những con số này phản ánh rõ sự thu hẹp cơ hội tiếp cận giáo dục khi trẻ bước lên cấp học cao hơn.

Theo phân tích của TS Nguyễn Hải Hữu, hệ thống chính sách đối với trẻ em nói chung khá đầy đủ, từ nhà trẻ, mầm non, mẫu giáo đến phổ thông. Tuy nhiên, đối với nhóm trẻ em di cư, chính sách chủ yếu mới tập trung vào cấp mầm non; trong khi ở cấp tiểu học, THCS và đặc biệt là THPT còn sự phân biệt nhất định giữa trẻ di cư và trẻ địa phương. Điều này dẫn đến thực tế càng ở cấp học cao, trẻ em di cư càng khó tiếp cận dịch vụ giáo dục công lập.

cong-bang-tiep-can-giao-duc-giua-long-do-thi-4.jpg

Học sinh Trường Tiểu học Tứ Liên (Hồng Hà, Hà Nội). Ảnh: TG

Thiếu hụt cơ sở trông giữ trẻ

Một trong những khó khăn lớn nhất là sự thiếu hụt cơ sở trông giữ trẻ ngay trong các khu công nghiệp. Tại nơi cư trú, các trường công lập thường quá tải, việc xin học khó khăn; còn khối tư thục lại có mức phí cao, vượt khả năng chi trả của nhiều gia đình công nhân.

Ở cấp tiểu học và THCS, việc nhập học của trẻ di cư cũng gặp trở ngại khi các trường công lập tại khu vực đông dân cư bắt đầu quá tải. Quy định tuyển sinh đầu cấp tại một số nơi tạo ra bất lợi cho con em lao động ngoại tỉnh. Hệ quả là nhiều trẻ bị xếp vào các lớp có sĩ số cao hơn hoặc các lớp dành riêng cho học sinh tạm trú, ảnh hưởng đến chất lượng học tập cũng như việc hòa nhập.

Đối với cấp THPT, rào cản càng lớn. Do quy định tuyển sinh chặt chẽ và hạn mức tuyển sinh theo hộ khẩu, phần lớn trẻ em trong các gia đình lao động di cư ở khu công nghiệp rất khó tiếp cận trường công lập. Trong khi đó, học phí hệ tư thục ở bậc học này lại quá cao. Vì vậy, đa số học sinh độ tuổi THPT buộc phải trở về quê nhà theo học, gây gián đoạn quá trình học tập và ảnh hưởng đến đời sống gia đình.

Tình trạng thiếu đất quy hoạch cho trường lớp, áp lực dân số cơ học tại khu công nghiệp và điều kiện kinh tế khó khăn của người lao động khiến thách thức tiếp cận giáo dục của trẻ em di cư ngày càng gia tăng. Theo các chuyên gia, để bảo đảm bình đẳng cơ hội giáo dục, chính sách cần chuyển mạnh sang hướng bao trùm, coi con em công nhân là nhóm cần ưu tiên, thay vì chỉ tập trung vào trẻ ở vùng khó khăn, miền núi hay hải đảo như trước đây.

Qua khảo sát, GS.TS Đặng Nguyên Anh - Viện Xã hội học, cho thấy, tại các khu công nghiệp còn thiếu hụt trường mầm non, mẫu giáo. Hiện mới đáp ứng được 45% nhu cầu của người lao động di cư đến khu vực này. Trong khi đó trẻ em trong các gia đình di cư theo học các trường dân lập với chi phí cao hơn bởi hộ khẩu và tạm trú là vấn đề khó khăn với đối tượng này. Ngoài ra, vấn đề hộ khẩu/tình trạng đăng ký cư trú là rào cản lớn đến khả năng tiếp cận hệ thống giáo dục công lập đối với lao động di cư.

Từ kết quả nghiên cứu về đánh giá mức độ tiếp cận và công bằng giáo dục đối với trẻ tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, GS.TS Lê Anh Vinh - Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, nhận thấy, giáo dục ở khu vực này đang đối mặt với nhiều thách thức. Đây là nơi tập trung đông gia đình lao động nhập cư, kéo theo nhu cầu lớn về dịch vụ giáo dục.

Theo báo cáo tổng quan chính sách của nhóm nghiên cứu, tại các thành phố lớn, trẻ em nhập cư chiếm tới 92% nhóm 5 tuổi và 86,4% nhóm độ tuổi tiểu học. Tỷ lệ này làm nảy sinh nhiều vấn đề, nổi bật là sự thiếu hụt hạ tầng - xã hội, trong đó có hệ thống trường lớp. Việc cung cấp dịch vụ giáo dục không theo kịp tốc độ tăng dân số cơ học khiến nhiều gia đình lao động gặp khó khăn trong việc cho con đi học, dẫn đến bất bình đẳng về cơ hội giáo dục và gia tăng gánh nặng chi phí.

Thực tế cho thấy, việc đầu tư xây dựng cơ sở giáo dục theo quy hoạch các khu đô thị, khu công nghiệp ở nhiều địa phương còn chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ. Nguồn lực hạn chế khiến trường học công lập không đáp ứng kịp nhu cầu, trong khi cơ sở tư thục có chi phí cao vượt quá khả năng của phần lớn gia đình công nhân. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết về chính sách và nguồn lực nhằm bảo đảm quyền tiếp cận giáo dục công bằng cho trẻ em nhập cư.

cong-bang-tiep-can-giao-duc-giua-long-do-thi-1.jpg

Học sinh Trường THPT Đức Hợp (Hưng Yên). Ảnh: TG

Những “khoảng trống” cần lấp

Nhấn mạnh, an sinh xã hội là vấn đề quan trọng và thiết yếu; PGS.TS Lê Mạnh Hùng - Hiệu trưởng Trường Đại học Công đoàn, khẳng định, chính sách an sinh xã hội đúng đắn là động lực to lớn để phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả quan trọng đạt được, việc bảo đảm an sinh xã hội ở nước ta còn những “khoảng trống”, mức độ bao phủ của hệ thống an sinh xã hội chưa cao, đối tượng còn hẹp.

Vẫn tồn tại một nhóm lao động đang bị hạn chế trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội và chưa được hưởng đầy đủ quyền, lợi ích hợp pháp từ hệ thống an sinh xã hội, đó là nhóm lao động di cư, bao gồm cả lao động di cư nội địa và lao động di cư quốc tế. Vì vậy, bài toán cấp bách đặt ra là cần nhanh chóng hoàn thiện chính sách an sinh xã hội đối với lao động di cư, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.

Từ thực tiễn trên, các đại biểu Quốc hội cho rằng, khi thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026 - 2035, cần xác định rõ con em công nhân lao động là nhóm đối tượng cần ưu tiên hỗ trợ chứ không nằm trong nhóm đối tượng chung chung. Tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa 15, khi thảo luận tại hội trường, đại biểu Nguyễn Hoàng Bảo Trân (đoàn TPHCM) nêu thực trạng về vấn đề bình đẳng trong tiếp cận cơ hội giáo dục không chỉ ở miền núi mà ngay trong lòng đô thị.

Theo bà, nhiều năm qua, khi nói đến khó khăn giáo dục, chúng ta thường nhắc đến vùng sâu, xa, hải đảo nhưng có một nhóm đối tượng khác ít được nhắc đến mà khó khăn không kém, đó là con em công nhân lao động tại các khu công nghiệp, khu chế xuất.

Nhìn bề ngoài, các cháu sống ở đô thị, gần trung tâm, tưởng như có điều kiện thuận lợi hơn nhưng thực tế, đời sống công nhân còn khó khăn: Nhà trọ chật hẹp, môi trường sống không đảm bảo, cha mẹ làm việc tăng ca liên tục, mức thu nhập bấp bênh, không đủ thời gian chăm sóc, hỗ trợ con học hành.

Qua nắm tình hình, đại biểu Nguyễn Hoàng Bảo Trân nhận thấy, đa phần những gia đình ở trong phòng trọ 10 - 12m2, các cháu thiếu không gian học tập, kết nối xã hội, ít có điều kiện tiếp cận hoạt động ngoại khóa. Vì vậy, cần xác định rõ con em công nhân lao động là nhóm đối tượng cần ưu tiên hỗ trợ chứ không nằm trong nhóm đối tượng chung chung.

Bà Trân cũng đề nghị, ngoài ưu tiên chính sách học bổng, cần hỗ trợ xây dựng trường công lập gần khu công nghiệp bởi nhiều nơi tập trung hàng chục nghìn lao động nhưng trường học lại thiếu trầm trọng nên trẻ phải đi học xa, sĩ số lớp quá tải. Đồng thời có mô hình trường bán trú - bán trú linh hoạt cho con em công nhân; có “phòng sinh hoạt học tập” đặt ngay trong khu nhà trọ giúp trẻ có nơi học ổn định, tránh ảnh hưởng từ môi trường thiếu an toàn.

“Chúng ta không thể để một bộ phận lớn con em lực lượng lao động nòng cốt của nền kinh tế phải chịu thiệt thòi về cơ hội giáo dục. Công bằng giáo dục không chỉ là chuyện vùng núi, miền xuôi, mà còn ở công bằng ngay trong lòng các đô thị công nghiệp”, bà Trân nói.

TS Nguyễn Hải Hữu khuyến nghị, cần sửa đổi để bảo đảm quyền bình đẳng giữa nhóm trẻ em di cư và nhóm trẻ em không di cư. Không nên có sự phân biệt nhóm trẻ em tạm trú với thường trú ở cấp độ quốc gia và cấp địa phương. Ngoài ra, cần nghiên cứu sửa đổi các chính sách quy định về quy hoạch và thực hiện quy hoạch các khu công nghiệp, khu chế xuất, bắt buộc phải có quy hoạch nhà trẻ, lớp mẫu giáo để chăm sóc trẻ em là con công nhân, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động làm việc theo ca, kíp.

Việc quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương có khu công nghiệp, khu chế xuất cần tính đến lao động di cư và con em họ trong việc phát triển và cung cấp dịch vụ xã hội, bao gồm cả việc phân bổ ngân sách địa phương, nhà ở, y tế, giáo dục và hạ tầng cơ sở.

Mặt khác, cần tăng cường công tác truyền thông để nâng cao nhận thức của lao động trong việc thực hiện quyền của trẻ em tiếp cận với dịch vụ giáo dục và y tế có chất lượng và chăm sóc thai sản. Cùng với đó, cần có các biện pháp hỗ trợ tích cực và hiệu quả đối với người lao động và con em tạm trú trên địa bàn tiếp cận với dịch vụ xã hội nói chung, đặc biệt dịch vụ giáo dục, y tế, nhà ở.

Vì thế, con em lao động di cư đang phải chịu nhiều thiệt thòi trong tiếp cận giáo dục mầm non, cũng như quyền thụ hưởng chăm sóc, vui chơi. Do thiếu nhà trẻ, mẫu giáo phục vụ cho con em công nhân và người dân địa phương, nên không ít cơ sở mầm non tư thục, dân lập được mở ra để lao động nhập cư gửi con. Tuy nhiên, không phải gia đình nào cũng đủ tiền để gửi con vào những cơ sở giáo dục này. Nhiều cặp vợ chồng trẻ thường gửi con về quê cho ông bà chăm sóc.

GS.TS Lê Anh Vinh cho hay, nhóm nghiên cứu của Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam đã đề xuất các giải pháp tháo gỡ khó khăn, bất cập trong tiếp cận công bằng giáo dục với trẻ nhập cư ở các khu công nghiệp và khu chế xuất. Theo đó, cần tăng cường, đầu tư cơ sở hạ tầng giáo dục, quy hoạch, hỗ trợ tài chính và học phí, đảm bảo đội ngũ giáo viên và chất lượng giảng dạy.

Ngoài ra, cần có chính sách về cư trú cho các gia đình di cư, phát triển mô hình trường học hòa nhập, phối hợp liên ngành, hợp tác công tư, hoàn thiện thể chế, chính sách, tăng cường phân cấp gắn với trách nhiệm đồng thời thực hiện giám sát và đánh giá.

Bà Lê Anh Lan - Chuyên gia Giáo dục thuộc UNICEF Việt Nam, khẳng định sẽ đồng hành, phối hợp với Bộ GD&ĐT và các đơn vị liên quan, nhằm mang lại cho trẻ em Việt Nam cơ hội học tập tốt nhất, quyền học tập bình đẳng. Theo đó, tất cả trẻ em được đến trường, thu hẹp khoảng cách vùng miền của trẻ em Việt Nam.


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết