Đông Nam Á lo ngại tình trạng tỉ lệ sinh giảm
Các quốc gia Đông Nam Á ghi nhận tỉ lệ sinh giảm qua từng năm, không đạt mức sinh thay thế.

Tỉ lệ sinh giảm gây ra nhiều thách thức. Ảnh: Business Times
Theo tờ The Business Times, các quốc gia Đông Nam Á lo ngại tình trạng tỉ lệ sinh giảm sẽ tác động đến kinh tế - xã hội.
Các chuyên gia chỉ ra nhiều yếu tố dẫn đến tỉ lệ sinh - tức số ca sinh trung bình trên một phụ nữ - ngày càng giảm. Ở các quốc gia như Philippines, số ca sinh mới dường có liên quan chặt chẽ đến tỉ lệ kết hôn.
Ở Singapore, áp lực tài chính trong việc nuôi con là yếu tố ngăn cản chính, đẩy tỉ lệ sinh của thành phố này xuống mức thấp nhất trong khu vực là 0,97 vào năm 2023.
Theo chuyên gia kinh tế cấp cao Aiko Kikkawa của Ngân hàng Phát triển Châu Á, khi điều kiện sống được cải thiện và tỉ lệ tử vong ở trẻ em giảm xuống, các gia đình sẽ ít phải chịu áp lực hoặc không cần thiết phải sinh thêm con.
Nhà nghiên cứu Melina Martinus làm việc ở Trung tâm nghiên cứu ASEAN đánh giá số lượng phụ nữ tham gia lực lượng lao động ngày càng tăng cũng là yếu tố dẫn đến tình trạng tỉ lệ sinh thấp ở một số quốc gia.
“Kinh tế phát triển đòi hỏi phụ nữ tham gia đóng góp nhiều hơn vào lực lượng lao động", chuyên gia nói.
Tuy nhiên, dù lực lượng lao động nữ ngày càng đông nhưng các nền kinh tế ở Đông Nam Á, ngoại trừ Singapore và Brunei, vẫn chưa đạt mức thu nhập như mong đợi.
Tỉ lệ sinh giảm có nguy cơ làm thu hẹp tiềm năng tăng trưởng của đất nước. Ví dụ, tỉ lệ sinh thấp ở mức 1,6 ca sinh trên mỗi phụ nữ ở Malaysia, cùng với xu hướng già hóa dân số của quốc gia này đang tạo sức ép lên nền kinh tế.
Thái Lan cũng sẽ phải đối mặt với khủng hoảng dân số, số dân chỉ còn một nửa nếu tỉ lệ sinh tiếp tục giảm.
Giáo dục, chi phí sinh hoạt, quan niệm thay đổi và chế độ nghỉ thai sản cũng ảnh hưởng đến tỉ lệ sinh ở Thái Lan. Ở nước này, phụ nữ mang thai được hưởng 98 ngày hoặc 14 tuần nghỉ thai sản, đây là một trong những mức thấp nhất ở khu vực Đông Nam Á.
Một phân tích của các nhà nghiên cứu đến từ Viện Đo lường và Đánh giá sức khỏe (IHME) thuộc Đại học Washington (Mỹ) chỉ ra, đến năm 2050, sẽ có tới 3/4 số quốc gia trên thế giới không đạt được tỉ lệ sinh đủ nhằm duy trì quy mô dân số. Tình trạng này được dự đoán xảy ra ở 97% quốc gia trên toàn cầu đến năm 2100.
Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng, một chỉ số quan trọng hơn là thành phần dân số. Trước tình thế tiến thoái lưỡng nan về nhân khẩu học, các quốc gia đã đưa ra nhiều chính sách nhằm khuyến khích các gia đình sinh con, thay đổi các chính sách cũ gây kìm hãm tốc độ gia tăng dân số.
Ở Việt Nam, tỉ lệ sinh có xu hướng giảm. Theo thống kê của Tổng cục Thống kê, năm 1999, trung bình mỗi phụ nữ Việt Nam trong độ tuổi sinh đẻ có 2,33 con. Từ năm 2009 đến nay, tỷ suất sinh tăng nhẹ, hoặc giảm nhẹ quanh mức (2,1 con) và đến năm 2023, mỗi phụ nữ Việt Nam có 1,9 con, thấp nhất từ trước đến nay.
Trong khi đó, để đảm bảo mức sinh thay thế và quy mô dân số, Việt Nam cần duy trì vững chắc mức sinh thay thế 2,1 con/phụ nữ.
Trong dự báo dân số Việt Nam tới năm 2069, ở kịch bản mức sinh thấp, Việt Nam sẽ đối diện với nguy cơ tỉ lệ tăng dân số bình quân ở mức -0,04% vào năm 2059. Nếu ở phương án mức sinh trung bình, 10 năm sau đó (2069), con số này mới đạt mức 0.
Mức sinh thấp tác động trực tiếp, sâu sắc tới cơ cấu dân số, suy giảm nhóm dân số trong độ tuổi lao động, đẩy nhanh quá trình già hóa. Từ đó, cấu trúc gia đình, đời sống văn hóa - xã hội, kinh tế, lao động, việc làm và an sinh xã hội đều bị ảnh hưởng.







