Lúa phát thải thấp nâng giá trị hạt gạo Việt
Bối cảnh biến đổi khí hậu gay gắt, yêu cầu của thị trường quốc tế đối với nông sản ngày càng khắt khe, Việt Nam đã cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, đòi hỏi ngành lúa gạo phải đổi mới tư duy, phương thức sản xuất.
Việc liên kết sản xuất lúa chất lượng cao gắn với giảm phát thải không chỉ nâng cao giá trị hạt gạo, cải thiện thu nhập cho nông dân, mà còn là yếu tố khẳng định chất lượng gạo Việt Nam trên thị trường toàn cầu.

Mô hình canh tác giống lúa mới, năng suất chất lượng, thích ứng với biến đổi khí hậu tại Ứng Hòa. Ảnh: Ngọc Ánh
Từ “sản lượng” sang “chất lượng”
Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, sau 2 năm triển khai, Đề án sản xuất 1 triệu héc ta lúa chuyên canh chất lượng cao, phát thải thấp vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt kết quả khá. Những mô hình đầu tiên thành công đang mở đường để vùng lúa lớn nhất cả nước chuyển sang hướng “sản xuất xanh” khi chi phí sản xuất giảm 8,2-24,2% so với mô hình truyền thống. Về hiệu quả kinh tế, năng suất lúa tăng 2,4-2,7%; thu nhập của nông dân tăng 12-50%. Về môi trường, những mô hình này giảm phát thải khí nhà kính từ 2,0-12,0 tấn CO2/ha so với phương thức canh tác truyền thống. Mới đây, những lô hàng “Gạo Việt xanh phát thải thấp” đầu tiên cũng đã được xuất khẩu sang Nhật Bản, đánh dấu sự thành công của mô hình.
Từ thành công này, mới đây, Bộ Nông nghiệp và Môi trường chính thức công bố Đề án sản xuất giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến năm 2050. Theo Trưởng phòng Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) Bùi Xuân Phong, việc Bộ ban hành Đề án sản xuất giảm phát thải trong lĩnh vực trồng trọt giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến năm 2050 và Kế hoạch hành động triển khai đề án đã đánh dấu bước chuyển quan trọng của ngành. Lần đầu tiên, trồng lúa giảm phát thải được đặt ở vị trí trung tâm, xuyên suốt chương trình, đề án lớn của ngành trồng trọt. Đề án không chỉ đặt mục tiêu giảm phát thải, mà còn thúc đẩy quá trình chuyển đổi từ tư duy sản xuất chạy theo sản lượng, sang tư duy sản xuất chú trọng chất lượng, hiệu quả, bền vững...
Một điểm nhấn quan trọng trong quá trình triển khai sản xuất lúa giảm phát thải là việc áp dụng Quy trình thí điểm đo đạc, báo cáo, thẩm định (MRV) trong canh tác lúa chất lượng cao, phát thải thấp. PGS.TS Mai Văn Trịnh, Viện trưởng Viện Môi trường nông nghiệp cho biết, canh tác lúa phát sinh ba loại khí nhà kính chính là mê-tan (CH₄), carbon dioxide (CO₂) và nitrous oxide (N₂O), trong đó, CH₄ chiếm tỷ trọng lớn và có khả năng gây nóng lên toàn cầu, cao gấp nhiều lần CO₂. Kết quả từ các mô hình thí điểm cho thấy, khi thay đổi phương thức canh tác truyền thống sang quy trình canh tác lúa chất lượng cao, phát thải thấp, lượng giống gieo sạ và phân bón đạm đều giảm đáng kể, trong khi năng suất duy trì ổn định. Đặc biệt, việc áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật như tưới nước ngập - khô xen kẽ, quản lý phân bón hợp lý, giảm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đã giúp giảm hàng tấn CO₂ tương đương trên mỗi héc ta mỗi vụ. Thực tế cho thấy, khi tham gia liên kết, nông dân không chỉ giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận, mà còn yên tâm về đầu ra sản phẩm.
Liên quan đến vấn đề này, đại diện Công ty Bayer Việt Nam Nguyễn Trường Vương chia sẻ về liên kết sản xuất lúa gạo chất lượng cao giảm phát thải, từ giữa năm 2023, Bayer cùng Trung tâm Khuyến nông quốc gia đã ký kết chương trình hợp tác công tư trong chuỗi ngành hàng lúa gạo, cụ thể là triển khai Dự án Bayer ForwardFarming, mô hình đầu tiên thực hiện tại Cần Thơ. Đến nay, công ty đã xây dựng được hơn 10 mô hình, quy mô 3-5ha/mô hình, qua đánh giá đều cho kết quả tích cực, tổng lợi nhuận tăng từ 3-6 triệu đồng/ha/mô hình.
Nhân rộng có kiểm soát, có hiệu quả
Để liên kết sản xuất lúa chất lượng cao, giảm phát thải trở thành xu hướng chủ đạo, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp.
Đại diện Công ty Net Zero Carbon Trần Minh Tiến kiến nghị, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách liên quan đến sản xuất nông nghiệp xanh, đặc biệt là xây dựng khung pháp lý đầy đủ cho đo đạc, xác nhận, giao dịch tín chỉ carbon trong nông nghiệp. Việc minh bạch hóa quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia sẽ tạo niềm tin để nông dân và doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư. Ngoài ra, cần tăng cường vai trò hợp tác xã trong tổ chức sản xuất và liên kết chuỗi. Cùng với đó, cần đẩy mạnh đào tạo, tập huấn, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật cho nông dân, giúp thay đổi tập quán canh tác truyền thống sang phương thức sản xuất hiện đại, thân thiện môi trường; khuyến khích doanh nghiệp tham gia sâu vào chuỗi giá trị lúa gạo thông qua mô hình hợp tác công - tư, vừa nâng cao giá trị sản phẩm, vừa chia sẻ lợi ích - rủi ro với nông dân.
Trưởng phòng Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Bùi Xuân Phong cho hay, theo lộ trình, năm 2026, các địa phương sẽ triển khai trước một số mô hình để tìm ra phương pháp, định hình kế hoạch; từ năm 2027 mới nhân rộng. Để triển khai đề án, các bước của mô hình năm 2026 như giai đoạn 2024-2025; các địa phương cần thí điểm rồi nhân rộng có kiểm soát, làm đến đâu tốt đến đó, ít nhưng phải hiệu quả; cần đáp ứng chuẩn gói kỹ thuật, nhân rộng vùng theo chuỗi liên kết để dễ thực hiện.
Cũng theo ông Bùi Xuân Phong, đây là nền tảng quan trọng, góp phần nâng tầm thương hiệu gạo Việt theo hướng xanh, bền vững, có trách nhiệm với môi trường.







