• :
  • :
A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Logistics trong thời đại công nghệ 4.0

Trên thế giới, toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ với sự phát triển của kinh tế thị trường và thời đại công nghệ 4.0. Ngày nay, người ta không chỉ nói đến quy luật tự nhiên “vạn vật hấp dẫn” (universal gravitation) mà còn nói nhiều đến quy luật nhân tạo “vạn vật kết nối” (Internet of things) nhờ sự tiến bộ của khoa học và công nghệ số.

Đối với nền kinh tế, nguồn lực sản phẩm là 1 trong năm nguồn lực kinh tế xã hội chủ yếu. Nguồn lực sản phẩm tập hợp các tài sản vật chất, cơ sở hạ tầng và công nghệ … được tạo ra bằng các hoạt động sản xuất để sẵn sàng góp phần vào sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ. Các sản phẩm của ngành sản xuất công nghiệp là phương tiện sản xuất không thể thiếu và là nguồn lực nền tảng cho các nguồn lực khác được sử dụng hiệu quả, đảm bảo sức mạnh bền vững quốc gia vì nó thường đóng góp quan trọng vào bốn mục tiêu vĩ mô quan trọng: tăng trưởng GDP và cung cấp việc làm; nguồn lực chính phát triển thương mại và dịch vụ; giảm thâm hụt thương mại; và là nội dung chính trong các chương trình nghị sự bền vững kể cả an ninh quốc phòng.

Với sự thay đổi của khu vực và thế giới, có hai lĩnh vực trọng tâm lớn nhất được đặt ra trong nền kinh tế: Tiêu chuẩn và chuỗi cung ứng sản phẩm. Ngành hậu cần logistics là một phần của quản lý chuỗi cung ứng liên quan đến dòng chảy  hiệu quả của hàng hóa, dịch vụ và thông tin liên quan từ điểm xuất phát đến điểm tiêu thụ theo nhu cầu của khách hàng. Với sự phát triển của công nghệ số, logistics ngày càng đóng vai trò trung tâm của chuỗi cung ứng. Logistics không chỉ có chi phí đầu tư lớn và tác động mạnh đến giá cả sản phẩm (trung bình chiếm khoảng 5% GDP, 20% giá cuối cùng của hàng hóa) mà nó còn có tính chất quyết định chất lượng của thương mại quốc tế khi mà bất kể khoảng cách xa, gần, mỗi khách hàng đều mong muốn sản phẩm của mình được giao một cách nhanh chóng và hoàn hảo nhất.

 Việc áp dụng chuyển đổi kỹ thuật số trong hậu cần logistics khá chậm chạp so với các ngành khác trong những thập kỷ trước. Tuy nhiên, trong 5 năm trở lại đây, ngành công nghiệp này đã chứng kiến sự xuất hiện ngày càng nhiều doanh nghiệp hợp tác chặt chẽ hơn với các công ty công nghệ khi lĩnh vực này đang mở ra một thị trường trị giá hàng trăm tỷ đô la. Các báo cáo thống kê cho thấy 2,3 nghìn tỷ đô la trên toàn thế giới sẽ được đầu tư vào công nghệ và dịch vụ cho phép số hóa vào năm 2023. Điều này cho thấy các doanh nghiệp logistics có thể hưởng lợi như thế nào từ công nghệ kỹ thuật số.

Kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế mở,  dựa vào thương mại quốc tế khi có quan hệ kinh tế song phương với trên 230 nước và vùng lãnh thổ. Việt Nam cũng đã ký kết 16 hiệp định thương mại tự do (FTA) với 60 nền kinh tế. Tính chung năm 2021, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa cả nước đạt 670 tỷ USD, gấp gần 2 lần tổng sản phẩm quốc nội GDP. 

Việt Nam cũng có vị trí địa - chính trị quan trọng trong khu vực, đặc biệt là trên Biển Đông - tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương, châu Âu - châu Á, Trung Đông - châu Á. Đây được coi là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của thế giới. Biển Đông mang tầm quan trọng chiến lược to lớn: Ngoài tiềm năng về năng lượng, khoáng sản và hải sản, số liệu thống kê cho thấy hơn 90% lượng vận tải thương mại của thế giới thực hiện bằng đường biển và 45% trong số đó phải đi qua vùng Biển Đông với lượng thương mại trị giá gần 5,5 nghìn tỷ USD mỗi năm. Nhiều nước và vùng lãnh thổ ở khu vực Đông Á có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào con đường biển này như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và cả Trung Quốc.

Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã xác định xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ là 1 trong 3 đột phá chiến lược để phát triển đất nước. Thực hiện nhiệm vụ trên, chúng ta đã từng bước nâng cấp đường bộ, đường sắt, đường không, đường biển, đường thủy nội địa giữa các địa phương và kết nối đồng thời với các nước khu vực thông qua 3 loại cửa khẩu bao gồm: Cửa khẩu đường bộ ở các điểm nút giao thông trong nước thông với nước ngoài (Móng Cái - Quảng Ninh, Hữu Nghị - Lạng Sơn, Lao Bảo - Quảng Trị, Mộc Bài - Tây Ninh); Cửa khẩu đường biển đặt tại các cảng biển, chẳng hạn: Cửa khẩu cảng Hải Phòng, Cảng Tiên Sa (Đà Nẵng), Cảng Sài Gòn (Tp. HCM), Cảng Cà Ná (Ninh Thuận); Cửa khẩu hàng không đặt tại các sân bay quốc tế trong nước như: Nội Bài, Tân Sơn Nhất (Tp.HCM), Cát Bi (Hải Phòng), Cam Ranh (Nha Trang)…

Về đường biển, hệ thống cảng biển được đầu tư đồng bộ với năng lực thông qua khoảng 570 triệu tấn/năm. Hai cảng cửa ngõ quốc tế Cái Mép và Lạch Huyện đã có khả năng tiếp nhận được tàu tải trọng lớn từ 130.000 tấn đến 200.000 DWT đi thẳng bờ Tây nước Mỹ, Canada và Châu Âu; cảng chuyên dùng tiếp nhận được tàu từ 100.000 tấn đến 320.000 tấn; từng bước phát triển hệ thống cảng cạn hỗ trợ hiệu quả cho việc khai thác cảng biển, phát triển dịch vụ logistics.

Về đường hàng không, các cảng hàng không quan trọng đã được nâng cấp gồm Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng và xây dựng mới gồm Phú Quốc, Vân Đồn, nâng tổng công suất mạng cảng hàng không đạt khoảng 90 triệu hành khách/năm. Công nghệ điều hành bay hiện đại đảm bảo an toàn, tăng hiệu quả khai thác hạ tầng cảng hàng không.

Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ số trong doanh nghiệp logistics nói riêng và trong các doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn nhiều hạn chế và đang đối mặt với khoảng cách lớn về Trí tuệ nhân tạo (AI). Theo số liệu thống kê, đầu tư vào các công ty giải pháp AI thì Việt Nam cùng với Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Việt Nam và Philippines đều dưới mức 1 USD. Trong khi đó Singapore với 68 USD đầu tư vào AI trên đầu người. Trung Quốc con số trong năm 2019 là 21 USD và Hoa Kỳ Mỹ đạt 155 USD trên đầu người. Điều đó đặt ra những thách thức cho Việt Nam cần phải đầu tư mạnh mẽ hơn nữa để tận dụng nền tảng kỹ thuật số trong sản xuất và phân phối hàng hóa, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước.

Ngoài ra, chuyển đổi kỹ thuật số cũng có nhiều rủi ro: một cuộc khảo sát gần đây với các giám đốc, CEO và giám đốc điều hành cấp cao cho thấy rủi ro chuyển đổi kỹ thuật số (DT) là mối quan tâm số 1 của họ trong năm 2019 vì 70% tất cả các sáng kiến DT không đạt được mục tiêu của họ. Trong số 1,3 nghìn tỷ đô la đã được chi cho DT năm ngoái, ước tính rằng 900 tỷ đô la đã bị lãng phí. Tại sao một số nỗ lực DT thành công và những nỗ lực khác lại thất bại?

Về cơ bản, đó là vì công nghệ kỹ thuật số đều cung cấp khả năng tăng hiệu quả và làm hài lòng khách hàng. Nhưng nếu doanh nghiệp thiếu tư duy để thay đổi, hạ tầng không đồng bộ và không có phương thức tổ chức triển khai thực hiện chiến lược chuyển đổi phù hợp thì sẽ dẫn đến sự thất bại và khi đó DT sẽ chỉ đơn giản là công cụ phóng đại những thất bại đó.

Chính vì vậy, để ứng dụng tốt chuyển đổi số trong ngành công nghiệp logistics, doanh nghiệp cần nhận thức có thể tận dụng quá trình số hóa để đem lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp như tăng hiệu quả, xây dựng lòng tin giữa các đối tác thương mại và các bên liên quan, định tuyến cung ứng tối ưu, quản trị tốt phương tiện vận tải, ra quyết định thông minh trên công cụ điện toán nhận thức và hỗ trợ Trí tuệ nhân tạo…Thực tế cho thấy công nghệ số sẽ giúp ngành logistics vượt qua các thách thức bằng cách tối ưu hóa quy trình, giao tiếp từ đầu đến cuối, quản lý chuỗi cung ứng, cải thiện trải nghiệm của khách hàng và kiểm soát chi phí. Theo một nghiên cứu mới, công nghệ số nói chung và trí tuệ nhân tạo nói riêng có thể chuyển nền kinh tế khu vực ASEAN, trong đó có Việt Nam, sang một nấc thang cao hơn. Nếu các thành viên ASEAN bắt kịp tốc độ áp dụng AI, họ có thể tăng thêm gần 1 nghìn tỷ USD (riêng Việt Nam trên 100 tỷ) vào tổng sản phẩm quốc nội của khu vực năm 2030. 

Nền kinh tế toàn cầu đang trải qua quá trình chuyển đổi kỹ thuật số. Các công nghệ kỹ thuật số hiện đại là những công cụ giúp quá trình này trở nên khả thi. Do đó, tầm quan trọng của công nghệ kỹ thuật số trong ngành hậu cần là rất rõ ràng và hiện hữu.

Tuy nhiên, quá trình ứng dụng công nghệ số trong doanh nghiệp logistics là quá trình chuyển đổi đột phá mang tính khoa học cao đòi hỏi sự tiên phong nghiên cứu và đề xuất mô hình phù hợp với quy hoạch kinh tế xã hội từng khu vực cũng như môi trường thiên nhiên. Quá trình đó đòi hỏi những bước phát triển và mô hình thời gian phù hợp để đảm bảo sự thành công. Tổng Công ty Logiinds (thuộc tập đoàn CT group) là một ví dụ điển hình. Trong kế hoạch năm nay 2023, Logiinds sẽ tập trung xây dựng Kho ngoại quan hiện đại tại Tân Sơn Nhất và Đà Nẵng. Chiến lược xây dựng quá trình ứng dụng công nghệ số của Logiinds gồm 4 giai đoạn phát triển:

1. Khởi động chuyển đổi số: Logiinds xác định hướng kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ mới theo mô hình đột phá trong lĩnh vực hạ tầng, công nghiệp logistics như AI Platform, Robotics…, cung cấp các giải pháp green logistics – công nghệ xanh, sạch và có thể tái tạo. Với sự hợp tác của CT Optimal LAB tại Cộng hòa Pháp, Logiinds trực tiếp phát triển một AI Platform hoàn toàn vào lĩnh vực logistics. Đặc biệt, tập trung áp dụng các công cụ như chuỗi dữ liệu (block chain), vạn vật kết nối (IoT), trí tuệ nhân tạo (AI), mô phỏng (digital twin), phân tích dữ liệu lớn (big data and analytics) và các công nghệ khác cung cấp những cách thức mới có giá trị nhằm hợp lý hóa hoặc xác định lại mục đích kinh doanh được thúc đẩy bởi chuỗi cung ứng và hậu cần sẵn có để xây dựng  quy trình kinh doanh tiên tiến. Quá trình này giúp định hình các tiêu chuẩn kỹ thuật số, thúc đẩy ứng dụng hiệu quả các công cụ công nghệ số, đưa ra quyết định tốt hơn, thu hút khách hàng trong suốt hành trình của họ, kết hợp tính linh hoạt của tổng công ty và tăng cường tự động.

2. Chuyển đổi mô hình kinh doanh kỹ thuật số: Chuyển đổi mô hình kinh doanh tạo ra và mang lại giá trị dựa chủ yếu trên ứng dụng công nghệ số. Cách thức cung cấp dịch vụ và giải pháp có thể chuyển từng bước từ tương tác truyền thống vật lý sang trải nghiệm kỹ thuật số hoàn toàn.

3. Định hướng mới lĩnh vực kinh doanh: Đến một giai đoạn phát triển, khi đã tích lũy được nhiều kiến thức chuyên môn và các khoản tài chính để đầu tư, doanh nghiệp sẽ chủ động mở rộng phạm vi tiếp cận sang các lĩnh vực kinh doanh mới tiềm năng. Khi doanh nghiệp đầu tư nhiều vào kỹ thuật số để hỗ trợ hoạt động kinh doanh cốt lõi của mình thì sẽ xuất hiện nhiều tiềm năng cung cấp các giải pháp kỹ thuật số sang các ngành khác, tạo ra triển vọng kinh doanh sinh lợi trong các ngành dọc hoàn toàn mới.

4. Chuyển đổi cấu trúc doanh nghiệp: Giai đoạn phát triển cao nhất trong quá trình chuyển đổi số là thiết lập  hệ thống cấu trúc toàn doanh nghiệp thông qua chuyển đổi kỹ thuật số dài hạn. Bằng cách xác định lại các quy trình và năng lực nội bộ cũng như tư duy vận hành, những cải tiến này tạo điều kiện cho việc mở rộng trong tương lai. Sự thay đổi trong doanh nghiệp dẫn đến các quy trình công việc linh hoạt loại bỏ tình trạng silo của một số bộ phận không muốn hợp tác, chia sẻ thông tin với những người khác làm giảm hiệu quả trong hoạt động chung, giảm tinh thần làm việc và có thể góp phần vào sự sụp đổ của văn hóa hướng đến hiệu suất cao của doanh nghiệp, thay thế chúng bằng thử nghiệm thời gian thực và các thủ tục ra quyết định phi tập trung…Những hiệu ứng này cho phép các kỹ thuật hợp tác và phát minh mới, có thể dẫn đến các cách tiếp cận mới để cung cấp giá trị hướng tới mô hình logistics hiện đại 5PL là loại dịch vụ thị trường thương mại điện tử, bao gồm các 3PL và 4PL quản lý tất cả các bên liên quan trong chuỗi phân phối trên nền tảng thương mại điện tử. Chìa khoá thành công của các nhà cung cấp dịch vụ logistics 5PL là ba hệ thống quản lý đơn hàng (OMS), quản lý kho hàng (WMS) và quản lý vận tải (TMS) phải được quản trị liên quan chặt chẽ với nhau trong một hệ thống công nghệ thông tin đồng bộ.

Để xây dựng môi trường kinh doanh kỹ thuật số đảm bảo đem lại lợi ích thiệt thực và hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp cũng như chuyển đổi kinh doanh kỹ thuật số hiệu quả, nên chăng các cần xây dựng 5 chính sách vĩ mô cụ thể:

a. Chính sách tiêu chuẩn logistics chung của quốc gia: Trong kỹ thuật công nghệ, tiêu chuẩn là ưu tiên số 1 do đó cần xây dựng chính sách tiêu chuẩn logistics chung của Việt Nam phù hợp với xu hướng tiêu chuẩn và quy tắc chuyển đổi số của các nước công nghiệp phát triển. Đảm bảo sự kết nối hoàn hảo tất cả các tiêu chuẩn phần mềm và phần cứng của hệ thống logistics và giao thông nhằm tạo sức mạnh cộng hưởng.

b. Đào tạo kỹ năng kỹ thuật số: Bất kỳ giải pháp công nghệ nào cũng phải tính đến ảnh hưởng tới người lao động và đặt con người lên hàng đầu. Cần xây dựng cam kết chung để đào tạo kỹ năng kỹ thuật số cho lực lượng lao động.

c. Liên kết các nguồn lực kinh tế xã hội (capital cluster):logistics là đáy của kim tự tháp cần thiết không chỉ cho tất cả các hoạt động của chuỗi cung ứng mà còn cho tất cả các hoạt động kinh tế như du lịch, thương mại và đầu tư. Tuy nhiên, đây cũng là lĩnh vực cần nhiều nguồn lực nhất để đầu tư và ngược lại, cùng với hệ thống giao thông, ngành logistics với sự ứng dụng của công nghệ số sẽ là nguồn lực quan trọng nhất của nguồn lực sản phẩm quốc gia và là nền tảng kết nối chặt chẽ với 4 nguồn lực chủ yếu còn lại: tài nguyên, con người, tài chính và xã hội. Vốn xã hội như Quy hoạch, luật đất đai (phát triển các kết nối cảng biển, hệ thống dịch vụ hỗ trợ sau cảng biển với đường không, đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa với các khu công nghiệp (KCN), trung tâm thương mại và đô thị trong cả nước), thể chế (hải quan điện tử, Hội logistics, nhà cung cấp phụ trợ, cơ sở giáo dục, nghiên cứu và đào tạo chuyên ngành hỗ trợ lẫn nhau trong một khu vực không gian nhất định); vốn tài chính: tập trung ưu tiên vốn cho các doanh nghiệp có chiến lược ứng dụng công nghệ số tốt và có tiềm năng thông qua các chính sách đầu tư công, tiền tệ và hợp tác PPP vào logistics; vốn con người: huy động nguồn nhân lực tinh hoa và có kỹ năng cao; vốn tài nguyên: với đặc thù của sở hữu đất đai và tài nguyên bờ biển ở Việt Nam, nguồn lực này sẽ là điều khác biệt lớn nhất trong việc hiện đại hóa hóa ngành logistics và giao thông ở Việt Nam góp phần quyết định không chỉ phát triển kinh tế xã hội mà còn bảo vệ môi trường. Chỉ có sự liên kết chặt chẽ các nguồn lực này mới đảm bảo sự thành công cho ngành logistics phát triển và tạo điều kiện để khởi xướng, đột phá và lan tỏa công cuộc đổi mới kinh tế lần thứ hai của đất nước. Được như vậy, ngành logistics với sự ứng dụng thành công công nghệ số sẽ là nguồn lực nền tảng để định vị quy mô kinh tế quốc gia trên trường quốc tế.

d.Hợp tác quốc tế trong việc phát triển các trung tâm logistics

Chuỗi cung ứng là một lĩnh vực kinh doanh toàn cầu và hiện nay đang trong quá trình chuyển đổi, vì vậy cần có chính sách đẩy mạnh việc hợp tác quốc tế trong việc phát triển các trung tâm logistics, nhất là các vùng kinh tế trọng điểm như Đồng bằng sông Mê Kông, Đồng bằng sông Hồng và khu vực miền Trung. Cần coi trọng phát triển hội nhập kinh tế trong ASEAN và coi đó là trọng tâm để đàm phán thương mại quốc tế và xây dựng chiến lược chuỗi cung ứng quốc gia, đảm bảo vị trí quan trọng của Việt Nam trong khu vực. Trong đó, đặc biệt chú ý đến dự án xây dựng kênh đào Kra (Thái Lan) vì nó chắc chắn sẽ thay đổi cục diện của ngành hàng hải ASEAN và vận tải quốc tế, nhất là các tàu thương mại trên tuyến Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Kênh đào mới này được cho là có lợi cho Việt Nam về mọi mặt (nhất là các tỉnh, thành phía Nam), xét trên các yếu tố kinh tế.

e. An ninh mạng:Chuyển đổi công nghệ số đem lại nhiều lợi ích, tuy nhiên việc ứng dụng nó cũng đem lại nhiều rủi ro. Vì vậy, cần tăng cường hợp tác và nâng cao năng lực trong lĩnh vực an ninh mạng khi xây dựng và triển khai chiến lược ứng dụng công nghệ.

Cùng với sự nhận thức và nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp trong lĩnh vực chuyển đổi số, việc xây dựng và thực thi hiệu quả các chính sách liên quan của Chính phủ sẽ định vị ngành logistics của Việt Nam đóng vai trò ngày càng quan trọng không những trong các nguồn lực phát triển kinh tế xã hội của đất nước mà còn trong sự chuyển dịch của kinh tế khu vực và toàn cầu.

TS. Đoàn Duy Khương 

...

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết