Kinh tế Việt Nam 2025: Mục tiêu tăng trưởng có thể hoàn thành
Dù tới đầu tháng 7, kết quả kinh tế vĩ mô mới được công bố nhưng những con số sơ bộ ở thời điểm hiện tại cho thấy, tình hình kinh tế hiện tốt hơn so với năm trước. Điều này khiến những kỳ vọng của chúng ta về việc hoàn thành mục tiêu tăng trưởng năm nay là hoàn toàn có cơ sở.
Dù kết quả tăng trưởng đầu năm tương đối tích cực, song nền kinh tế vẫn đối diện với những khó khăn.
Từ kỳ vọng tốc độ tăng trưởng sẽ tốt hơn
Những số liệu thống kê ban đầu cho thấy, trong những tháng đầu năm 2025, nền kinh tế tiếp tục đà tăng trưởng, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn được bảo đảm, nhiều chỉ số tăng trưởng tốt hơn so với cùng kỳ năm trước.
Cụ thể, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) 4 tháng tăng 8,4%. Tất cả các tỉnh, thành phố, ngoại trừ duy nhất 1 địa phương, đều có chỉ số IIP tăng. Các doanh nghiệp đẩy mạnh đơn hàng xuất khẩu, tổng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu tăng khá cao.
Tính chung 4 tháng, xuất khẩu tăng 12,8%, xuất siêu ước đạt 5,02 tỷ USD. Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký 4 tháng ước khoảng 13,8 tỷ USD, tăng 40% so với cùng kỳ năm trước. Vốn thực hiện ước trên 6,7 tỷ USD, tăng 7,3%. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 4 tháng tăng 3,2% so với cùng kỳ năm trước.
Những con số sơ bộ này cho thấy, tình hình hiện tại của nền kinh tế tốt hơn so với năm trước. Đặc biệt với quyết tâm của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp, hoạt động sản xuất kinh doanh đang được đẩy mạnh. Và như vậy, chúng ta hoàn toàn có thể kỳ vọng tốc độ tăng trưởng năm nay sẽ tốt hơn năm trước.
… tới những khó khăn hiện hữu
Dù kết quả từ những con số ban đầu tương đối tích cực, song nền kinh tế vẫn đối diện với những khó khăn.
Trước tiên, mặc dù vốn đầu tư công được kỳ vọng sẽ đóng góp mạnh mẽ cho tăng trưởng kinh tế với tổng số vốn gần 829,4 nghìn tỷ đồng được phân bổ cho bộ, cơ quan và địa phương trong năm nay, nhưng tính đến ngày 30/4/2025, tức là sau 4 tháng, ước giải ngân chung cả nước mới là 128,5 nghìn tỷ đồng, đạt 15,56% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, thấp hơn cùng kỳ năm 2024 là 16,64%.
Nhiều bộ ngành, địa phương chưa đạt được kết quả tích cực trong giải ngân vốn đầu tư công khi chỉ có 10/47 bộ, cơ quan Trung ương và 36/63 địa phương có tỉ lệ giải ngân vốn đầu tư công trên trung bình. Sự chậm trễ trong giải ngân vốn đầu tư công có thể gây ảnh hưởng tới mục tiêu tăng trưởng trong năm nay.
Trong khi đó, đầu tư tư nhân vẫn chưa phục hồi mạnh mẽ. Trong quý I/2025, vốn đầu tư tư nhân đạt 361,5 nghìn tỷ đồng, song chỉ tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước. Tốc độ tăng này thấp hơn so với mức tăng 13,7% của vốn thuộc khu vực Nhà nước và mức tăng tăng 9,3% của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Những hạn chế về quy định pháp luật, các điểm nghẽn về thể chế, những khó khăn của môi trường kinh doanh chưa thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư tư nhân. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc sớm đưa Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân vào cuộc sống, tạo đòn bẩy cho kinh tế tư nhân, đầu tư tư nhân sớm phát huy mạnh mẽ vai trò động lực quan trọng nhất của nền kinh tế.
Bên cạnh những khó khăn ở trên, thuế đối ứng hiện nay vẫn là ẩn số tạo ra nhiều áp lực. Theo đó, việc Mỹ công bố áp thuế đối ứng cao đối với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam trong bối cảnh hiện nay đã gây sốc với nhiều doanh nghiệp. Tuy việc áp dụng thuế đối ứng đã tạm thời trì hoãn, nhưng rủi ro về việc chịu mức thuế suất cao vẫn còn lơ lửng ở đó. Sắc thuế này nếu bị áp ở mức cao, đặc biệt là khi cao hơn so với các nền kinh tế khác có cùng mặt hàng đang được xuất khẩu vào Mỹ, sẽ gây ra nhiều tác động tiêu cực.
Mức thuế đối ứng cao nếu được áp dụng sẽ tác động đến xuất khẩu và các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng của các hàng hoá xuất khẩu sang Mỹ. Mức thuế 46% như dự tính ban đầu là mức thuế đặc biệt cao mà Việt Nam phải đối diện.
Mức thuế cao này nếu được áp dụng có thể dẫn tới một sự giảm sút đáng kể về kim ngạch xuất khẩu do tác động trực tiếp tới gần 1/3 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Theo số liệu thống kê năm 2024, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đạt gần 120 tỷ USD, chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Mức thuế này sẽ làm tăng giá thành sản phẩm của Việt Nam tại thị trường Mỹ, từ đó giảm tính cạnh tranh so với các đối thủ từ các quốc gia khác, đặc biệt từ những nền kinh tế không chịu mức thuế cao vậy, như Indonesia hay Ấn Độ. Điều này làm giảm tính cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu từ Việt Nam, gây khó khăn trong việc mở rộng thị trường tại Mỹ; đồng thời dẫn đến giảm sút kim ngạch xuất khẩu, gián tiếp làm suy giảm tăng trưởng kinh tế.
Suy giảm xuất khẩu vào thị trường Mỹ khó có thể được bù đắp ngay bằng việc tăng xuất khẩu sang các thị trường khác. Do đó, sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đang sản xuất hàng xuất khẩu hiện nay, cũng như ảnh hưởng tới việc làm và thu nhập của người lao động, ảnh hưởng tới sức mua và tiêu dùng trong nước.
Trong hoạt động thương mại quốc tế, Việt Nam có mức xuất siêu lớn sang Mỹ. Mức thuế cao sẽ gây ảnh hưởng tới cán cân thương mại hiện tại của Việt Nam. Rủi ro cán cân thương mại của Việt Nam sẽ quay trở lại trạng thái thâm hụt là có thể. Thâm hụt thương mại sẽ tạo áp lực lên cán cân thanh toán, từ đó tạo áp lực lên tỷ giá hối đoái, lãi suất và các cân đối vĩ mô khác của nền kinh tế.
Chắt chiu từng động lực cho tăng trưởng
Với những diễn biến như trên, ở thời điểm hiện tại, chúng ta phải chắt chiu từng động lực cho tăng trưởng.
Theo đó, với động lực tăng trưởng truyền thống như xuất khẩu, đầu tư và tiêu dùng, vẫn cần được duy trì. Đối với đầu tư, trong khi đầu tư nước ngoài vẫn duy trì được tốc độ tăng khá, cần đặc biệt chú trọng để đảm bảo việc giải ngân vốn đầu tư công theo mục tiêu đề ra và đẩy mạnh hơn các biện pháp nhằm gia tăng đầu tư tư nhân, nhờ đó sẽ giúp tăng tổng đầu tư, tăng tổng cầu và đóng góp cho tăng trưởng.
Những điểm nghẽn về quy định pháp luật, thực thi pháp luật, về chất lượng của các cơ quan thực thi pháp luật cần nhanh chóng được tháo gỡ để đẩy mạnh tốc độ giải ngân vốn đầu tư công, thúc đẩy đầu tư tư nhân khởi sắc.
Ngoài các động lực truyền thống, tăng trưởng cao hơn cần được đóng góp bởi các yếu tố khác như cải thiện về năng suất các nhân tố tổng hợp (TPF), năng suất lao động; từ đổi mới, sáng tạo, từ thúc đẩy khoa học, công nghệ, cơ hội từ nền kinh tế số; từ nâng cấp kỹ năng của người lao động; hay chỉ thuần tuý từ việc huy động và phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả hơn nhờ sử dụng thuần thục các công cụ và cơ chế thị trường trong xây dựng pháp luật, trong quản lý và điều hành; từ việc tháo gỡ các vướng mắc pháp lý của những dự án dở dang; hoặc từ việc giảm lãng phí trong huy động và sử dụng nguồn lực.
Cuối cùng, có rất nhiều dư địa, cơ hội trên nhiều lĩnh vực mà có thể được khai thác, chắt chiu để bổ sung cho các động lực truyền thống và đạt được mục tiêu tăng trưởng đề ra.