Bức tranh giảm nghèo bền vững từ chính sách quốc gia đến thực tiễn cơ sở
Trong bối cảnh kinh tế thế giới liên tục biến động, biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp và bất bình đẳng có xu hướng gia tăng, duy trì tốc độ giảm nghèo bền vững là thách thức lớn với nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, sau hơn bốn năm triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, những kết quả đạt được đã khẳng định một hướng đi đúng đắn: Chuyển mạnh từ hỗ trợ mang tính trợ cấp sang kiến tạo sinh kế, khơi dậy nội lực, giúp người dân tự tin vươn lên.
Những con số biết nói…
Giảm nghèo bền vững luôn là một trong những trụ cột quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Giai đoạn 2021-2025 diễn ra trong bối cảnh đặc biệt khó khăn: Đại dịch Covid-19 để lại hậu quả nặng nề, chuỗi cung ứng toàn cầu đứt gãy, xung đột địa chính trị kéo dài, thiên tai và biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt. Trong điều kiện đó, việc tiếp tục duy trì đà giảm nghèo, hạn chế tái nghèo càng cho thấy bản lĩnh điều hành và tính đúng đắn của chính sách.

Hội Liên hiệp phụ nữ xã Suối Hai với mô hình nuôi lợn tiết kiệm hỗ trợ hội viên khó khăn. Ảnh: Khuất Duyên
Theo Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 đã góp phần duy trì mức giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân 1-1,5%/năm. Tính đến cuối năm 2025, cả nước triển khai 10.587 mô hình, dự án giảm nghèo, trong đó có 9.816 mô hình nông nghiệp và 771 mô hình phi nông nghiệp, thu hút hơn 205.000 hộ dân tham gia, bao gồm hơn 110.000 hộ nghèo, 63.000 hộ cận nghèo và gần 32.000 hộ mới thoát nghèo.
Những con số ấy không chỉ phản ánh quy mô, mà quan trọng hơn là chất lượng của quá trình giảm nghèo. Hàng chục nghìn hộ dân đã thay đổi tập quán sản xuất, từng bước tiếp cận khoa học - công nghệ, thị trường và chuỗi giá trị, qua đó nâng cao thu nhập một cách bền vững.
Một điểm nhấn nổi bật của giai đoạn này là việc đặt “sinh kế” vào vị trí trung tâm. Nếu như trước đây, hỗ trợ giảm nghèo thường dàn trải, ngắn hạn, thì nay chính sách đã chuyển mạnh sang kiến tạo cơ hội lâu dài.
Theo báo cáo, hơn 9.300 mô hình sinh kế đã được triển khai trên cả nước, vượt xa mục tiêu ban đầu chỉ 1.000 mô hình. Đây là bước chuyển căn bản từ “cho con cá” sang “trao cần câu”, từ hỗ trợ đơn lẻ sang phát triển mô hình gắn với chuỗi giá trị nông nghiệp, làng nghề, du lịch cộng đồng và dịch vụ nông thôn.
Các mô hình trồng cây ăn quả đạt chuẩn VietGAP, nuôi trồng thủy sản bền vững, chăn nuôi hữu cơ, sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao… đã giúp gần 100.000 hộ dân tăng thu nhập gấp 2-3 lần, đồng thời hình thành những “cộng đồng sinh kế” - nơi người dân cùng học hỏi, hỗ trợ và liên kết với nhau.
Trong bức tranh chung ấy, Hà Nội là một điểm nhấn đặc biệt. Không chỉ tập trung hỗ trợ hộ nghèo thoát nghèo, nhiều địa phương của Thủ đô đã khơi dậy mạnh mẽ phong trào thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, qua đó không chỉ giảm nghèo mà còn làm giàu chính đáng, bền vững.
Tại xã Phúc Lộc, Hội Nông dân xã được xem là lực lượng nòng cốt trong công tác giảm nghèo và phát triển kinh tế nông thôn. Theo Chủ tịch Hội Nông dân xã Phúc Lộc Hoàng Thị Kim Khánh, Hội đã chủ động làm tốt công tác tín chấp và quản lý hiệu quả các nguồn vốn hỗ trợ nông dân.
Hiện, toàn xã có 33 tổ tiết kiệm và vay vốn Ngân hàng Chính sách xã hội, với tổng dư nợ trên 72 tỷ đồng, tạo điều kiện cho hơn 1.100 hộ vay vốn phát triển sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh đó, Quỹ Hỗ trợ nông dân xã đạt trên 8 tỷ đồng, trở thành nguồn lực quan trọng giúp hội viên đầu tư mô hình mới, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi.

Hội Nông dân xã Phúc Lộc tích cực hỗ trợ quảng bá, tiêu thụ nông sản cho nông dân. Ảnh: Sơn Tùng
Song song với hỗ trợ vốn, Hội thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật, phối hợp với doanh nghiệp và viện nghiên cứu đưa giống cây, con chất lượng cao vào sản xuất. Nhiều mô hình tiêu biểu như trồng bưởi Tam Vân, bưởi Phúc Thọ, chuối Nam Hà, rau thủy canh Lục Xuân, trồng nho và dâu tây ở Xuân Đình cho thu nhập 200–300 triệu đồng/năm, góp phần nâng cao đời sống hội viên.
Hằng năm, phong trào “Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững” được phát động sâu rộng. Qua bình xét năm 2025, toàn xã có 3.956 hộ đạt danh hiệu sản xuất, kinh doanh giỏi các cấp, minh chứng cho tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám khởi nghiệp của nông dân Phúc Lộc.
Theo Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã Phúc Lộc Tô Văn Sáng, phong trào thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi đã thực sự trở thành động lực quan trọng, khơi dậy khát vọng làm giàu chính đáng. Số hộ đăng ký danh hiệu này tăng đều qua các năm, từ 3.841 hộ (năm 2022) lên 3.956 hộ (năm 2025), với tỷ lệ đạt danh hiệu trung bình 69% số hộ đăng ký.
Cùng với đó, Hội Nông dân xã tích cực hỗ trợ quảng bá, tiêu thụ nông sản, kết nối hợp tác xã với các kênh phân phối, duy trì các điểm bán hàng OCOP và đưa nông sản lên sàn thương mại điện tử, thúc đẩy kinh tế số nông nghiệp, nông thôn.
Giảm nghèo gắn với thi đua làm giàu chính đáng
Không chỉ Phúc Lộc, nhiều địa phương khác của Hà Nội cũng ghi dấu ấn rõ nét trong hành trình giảm nghèo bền vững bằng những cách làm sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tiễn. Tại xã Vân Đình, theo Phó Chủ tịch UBND xã Phạm Nam Tiến, điểm khác biệt căn bản của công tác giảm nghèo những năm gần đây nằm ở sự chuyển đổi tư duy phát triển kinh tế nông thôn. Nếu như trước kia, sản xuất của người dân chủ yếu manh mún, nhỏ lẻ, mang tính tự cung tự cấp, thì nay các mô hình giảm nghèo đã từng bước hình thành tư duy sản xuất hàng hóa, hướng tới thị trường và giá trị gia tăng cao hơn.

Nông dân xã Vân Đình làm giàu từ mô hình bưởi VietGAP. Ảnh: Đình Thủy
Điều đáng chú ý là các mô hình giảm nghèo ở Vân Đình không chỉ dừng lại ở việc “tạo việc làm” hay hỗ trợ sinh kế trước mắt, mà hướng tới thay đổi cách nghĩ, cách làm của nông dân. Người dân không còn sản xuất theo thói quen cũ, “làm cho đủ ăn”, mà đã mạnh dạn tính toán đầu ra, liên kết tiêu thụ, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Đây chính là nền tảng quan trọng giúp giảm nghèo đi vào chiều sâu, hạn chế tái nghèo và tạo động lực vươn lên làm giàu chính đáng.
Trong số các mô hình tiêu biểu, sản xuất rau an toàn theo quy trình khép kín đã tạo việc làm thường xuyên cho nhiều lao động nông thôn, đồng thời cung cấp sản phẩm bảo đảm chất lượng cho thị trường Thủ đô. Mô hình trồng bưởi VietGAP không chỉ giúp nâng cao thu nhập cho các hộ tham gia mà còn góp phần xây dựng thương hiệu nông sản địa phương, từng bước khẳng định vị thế trên thị trường. Đặc biệt, mô hình trồng sen gắn với chế biến chè sen đã khai thác hiệu quả lợi thế sẵn có, kết hợp giữa nông nghiệp truyền thống với chế biến sâu, qua đó gia tăng giá trị sản phẩm và mở ra hướng phát triển kinh tế bền vững hơn.
Từ thực tiễn triển khai, các mô hình này đã mang lại những chuyển biến rõ rệt trong đời sống người dân. Thu nhập được cải thiện, việc làm ổn định hơn, nhiều hộ sau khi thoát nghèo tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất, trở thành những “hạt nhân” lan tỏa kinh nghiệm cho cộng đồng. Quan trọng hơn, người dân đã dần hình thành ý thức tự chủ trong phát triển kinh tế, giảm dần sự phụ thuộc vào hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước.
Theo Phó Chủ tịch UBND xã Vân Đình Phạm Nam Tiến, chính sự thay đổi từ gốc rễ, từ tư duy sản xuất đến cách tổ chức mô hình đã giúp mục tiêu “giảm nghèo bền vững” ở Vân Đình trở nên thực chất hơn. Những mô hình hiệu quả không chỉ giúp người dân thoát nghèo, mà còn tạo nền tảng để xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa hiện đại, gắn với thị trường, góp phần ổn định kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng sống ở khu vực nông thôn Thủ đô.

Mô hình trồng rau công nghệ cao tại xã Vân Đình giúp nhiều nông dân làm giàu. Ảnh: Đình Thủy
Không chỉ ở Thủ đô, nhiều địa phương miền núi cũng cho thấy hiệu quả rõ rệt khi kiên trì cách làm bài bản. Tại xã Quan Sơn (tỉnh Lạng Sơn), Đảng ủy xã xác định giảm nghèo bền vững là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong phát triển kinh tế – xã hội.
Giai đoạn 2021-2025, tỷ lệ hộ nghèo của xã Quan Sơn giảm từ 15,76% xuống còn 4,2%, mức giảm 11,56% - con số phản ánh rõ hiệu quả của việc nâng cao năng lực tự vươn lên của người dân. Không chỉ giảm về số lượng, chất lượng giảm nghèo ngày càng được cải thiện; nhiều hộ sau khi thoát nghèo đã hình thành sinh kế ổn định, chủ động hơn trong sản xuất và chi tiêu.
Nhìn tổng thể, giảm nghèo bền vững ở Việt Nam hôm nay không chỉ là những con số trong báo cáo, mà là sự chuyển mình của cộng đồng, là niềm tin được bồi đắp qua từng mô hình thành công, từng sinh kế được gây dựng, từng ngôi nhà mới dựng lên ở vùng khó.
Từ thực tiễn cả nước và Hà Nội có thể khẳng định: Khi chính sách đúng, cách làm linh hoạt, người dân được trao cơ hội và khơi dậy nội lực, thì mục tiêu “không ai bị bỏ lại phía sau” hoàn toàn có thể trở thành hiện thực. Giảm nghèo bền vững vì thế không chỉ là nhiệm vụ kinh tế - xã hội, mà còn là giá trị nhân văn sâu sắc, tạo nền tảng cho phát triển bền vững trong giai đoạn tiếp theo.







